Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Trà và những giai thoại

Go down 
Tác giảThông điệp
Chép

Chép


Tổng số bài gửi : 26
Join date : 21/06/2011
Age : 41

Trà và những giai thoại Empty
Bài gửiTiêu đề: Trà và những giai thoại   Trà và những giai thoại Empty3/8/2011, 09:45

Dũng Khê Hỏa Thanh

Đó là loại trà đặc sản của huyện Kinh tỉnh An Huy. Khởi nguyên của nó bắt đầu từ thời Minh. Lai lịch Dũng Khê Hỏa Thanh là truyền thuyết: bấy giờ ở vùng Dũng Khê có một tú tài tên gọi Lưu Kim, hiệu là La Hán tiên sinh. Nhân tiết trời xuân đi tới dãy núi Dũng Khê phát hiện ra một loại cây ''Kim Ngân trà''. Loại cây này lớn lên hình dáng rất kỳ lạ, nửa phiến lá màu trắng, nửa còn lại màu vàng. Người dân quen gọi là ''Bạch trà''. La Hán tiên sinh nghe kể cảm thấy rất hứng thú, bèn lấy về mầm cây ''Kim Ngân trà'' đem về nhà, vò rồi sao trên lửa, chế thành một loại lá trà, bề ngoài ưu tú thanh nhã, sắc xanh như châu ngọc, phủ lớp lông tơ trắng mịn, lại có mùi thơm như hoa, vị ngọt tựa cam đường, và đặt tên là Hỏa Thanh. Dũng Khê Hỏa Thanh sau này trở thành trà tiến vua, nổi tiếng toàn quốc, phát triển thịnh trị nhất vào thời nhà Thanh (1851-1861).

Tây Sơn trà

Tây Sơn trà xuất phát từ vùng Tây Sơn huyện Quế Bình (Quảng Tây). Xa xưa trên núi Tây Sơn có phiến đá bàn cờ, xung quanh mọc rất nhiều cây trà. Ngày kia, hai vị thần tiên ở trời cao bay xuống núi, chơi cờ trên đá. Họ ngắt vài lá trà bên cạnh, nấu với nước suối Khổng Tuyền rồi uống. Về sau, nước suối có vị ngọt như sữa, pha với cây trà vùng núi Tây Sơn thì hương vị không thể nào quên.

Thiết Quan Âm

Loại trà này là sản phẩm riêng của vùng An Khê (Phúc Kiến). Thời vua Càn Long nhà Thanh, ở thôn Tùng Lâm có người tên Ngụy Ẩm rất tin theo Phật. Mỗi buổi sáng sớm, thường pha một cốc trà thanh tịnh và cúng trước tượng Phật Quan Âm Đại Sĩ. Một hôm, anh lên núi kiếm củi, tìm ra một cây trà, trong ánh bình minh lóe rạng, lá trà như phát tỏa hào quang. Ngụy Ẩm đào cây mang về nhà, chăm sóc chu đáo. Lá trà sau này chế thành Ô Long trà, hương vị đặc biệt. Lá trà này sắc xanh như sắt, vị thanh, hương giống cây cỏ thơm nên gọi là ''Thiết Quan Âm''.

Hàng Châu Bích La Xuân

Xuất xứ danh trà ở vùng Thái Hồ Động Đình sơn huyện Ngô, Giang Tô. Cái tên Bích La Xuân có từ rất lâu đời. Theo ghi chép ''Thanh Gia lục'', có truyền thuyết rằng: ''Núi đông Động Đình có đỉnh Bích La, trên vách đá dựng đứng có vài cây trà mọc hoang dã. Mỗi năm, người dân trong vùng lại tới hái lá trà về uống. Bấy giờ, khi tiết hái trà đến gần, mọi người lên núi, thấy cây trà cành lá mọc xum xuê, ai cũng thi nhau lấy, giỏ tre đựng không đủ, bèn giắt cả vào ngực áo. Lá trà ấp vào ngực, gặp hơi nóng tỏa ra từ cơ thể, phát ra mùi hương kỳ lạ. Mọi người nhất loạt thốt lên: Nhân hương''. Từ đó về sau, mỗi lần hái trà, mọi người không dùng giỏ tre mà đều ôm vào ngực. Loại trà mang tên ''Nhân hương'' - ý là chỉ mùi thơm lá trà phát ra từ cơ thể con người. Vùng núi có người tên là Chu Chính Nguyên rất thông thạo cách chế trà ''Nhân hương''. Nhân Hoàng đế Khang Hy du ngoạn Thái Hồ, người dân dâng trà ''Nhân hương'', vua mê mẩn với tách trà, cảm thấy tên gọi không ưu nhã, liền đổi thành ''Bích La xuân''.

Huệ Minh Trà

Vùng núi Cảnh Ninh, Âu Giang tỉnh Chiết Giang là quê hương trà Huệ Minh, gắn liền với tên gọi một ngôi chùa sát chân núi. Tương truyền thời nhà Đường, có người tên là Lôi Thái Tổ đem bốn người con từ Quảng Đông lánh nạn đến vùng Giang Tây, rồi lại từ Giang Tây lưu lạc tới Chiết Giang. Trên đường đi gặp một vị hòa thượng, trò chuyện rất tâm đồng ý hợp. Cha con họ Lôi đến Cảnh Ninh, khai phá đất hoang, tìm cơ kiếm sống. Quan huyện sinh lòng tham, tìm cách chiếm đất đai của năm cha con, đẩy họ khỏi vùng. Cơ may họ Lôi đến trấn Nga Khê (Cảnh Ninh) lại gặp hòa thượng cũ. Đó chính là vị sư tổ chùa Huệ Minh. Xung quanh chùa đất đai rộng lớn, cây cối um tùm, vắng bóng người ở. Hòa thượng gọi cha con Lôi Thái Tổ đến chùa Huệ Minh, khai hoang trồng trà. Tên Huệ Minh trà có từ ấy.

Cửu khúc hồng mai

Cửu khúc hồng mai gọi tắt là Cửu khúc hồng còn có tên là Cửu khúc Ô long, xuất xứ ở bờ sông Tiền Đường (Hàng Châu). Tên gọi rất thi vị này bắt nguồn từ một truyền thuyết cũng là phản ánh sự đặc sắc của loại trà. Ở vùng Cửu khúc hồng mai có đôi vợ chồng già vẫn chưa sinh con, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. May sao một năm thành tâm nguyện ý sinh được cậu con trai, vợ chồng mừng hơn bắt được châu ngọc và gọi con là A Long. A Long lớn lên thông minh đẹp đẽ, lại rất thích chơi bên bờ sông. Một hôm, A Long đang nghịch nước, thấy hai con tôm tranh nhau viên ngọc nhỏ, cậu cảm thấy rất hiếu kỳ, bèn lấy viên ngọc sung sướng chạy về nhà. Trên đường đi không cẩn thận, nuốt ngọc vào bụng. Về đến nơi, toàn thân ngứa ngáy, gọi mẹ cho đi tắm. A Long vừa vào chậu nước, hình dáng biến thành rồng nhỏ Ô Long. Hôm đó trời mưa gió, sấm chớp bão bùng, Ô Long nhe nanh múa vuốt, bay ra khỏi nhà, hướng về phía núi. Vợ chồng già thấy con biến hình, vừa thất vọng, vừa đau đớn, khóc lóc xót xa. Ô Long lưu luyến song thân, nửa muốn đi, nửa muốn ở, chốc chốc ngoái đầu lại. Nơi Ô Long dừng chân, biến thành suối Cửu khúc. Ô Long đi rồi, hai vợ chồng già càng thêm thương nhớ. Về sau mỗi tiết Thanh minh, Ô Long lại về thăm cha mẹ một lần. Truyền thuyết về suối Cửu khúc cũng vừa phù hợp với cây trà trên núi Hàng Châu. Hình thù lá trà giống như rồng nhỏ, nên mọi người gọi là ''Cửu khúc Ô long''. Lá trà sắc vàng lấp lánh, khi pha nước, màu sắc tươi hồng nên còn gọi là ''Cửu khúc hồng mai''.

Ô Long trà

Từ rất lâu rồi, ở vùng núi sâu An Khê Phúc Kiến, có người thợ săn gọi là Hồ Lương. Một ngày trở về nhà sau khi săn thú, mặt trời lên cao, thời tiết nóng nực, Hồ Lương sợ thịt ôi hỏng, bèn tiện tay ngắt vài lá cây ven đường che đậy. Sau lại thấy nhà mình có mùi hương thơm ngát. Tìm quanh quẩn trong ngoài, mới biết hương thơm tỏa ra từ lá cây đã ngắt. Anh dùng lá cây ngâm vào nước, uống thấy tinh thần muôn phần sảng khoái. Hồ Lương không quản đường xa, tìm tới nơi, đào cây mang về trồng. Nhưng mùi vị pha không giống như trước. Anh suy nghĩ mông lung, rồi hiểu rằng, lá trà phải phơi nắng, gia công rồi mới có hương thơm. ''Hồ Lương'' phát âm ngôn ngữ địa phương gần giống ''Ô Long''. Người dân trong vùng ghi nhớ công lao Hồ Lương liền gọi loại trà này là ''Ô Long trà''.

Quân Sơn Ngân Châm

Có vị vua Minh Tông sau thời Ngũ Đại, một hôm thiết triều, thái giám dâng chén trà. Khi đổ nước pha trà, thấy bóng hạc trắng soi đáy cốc, ngước nhìn lên không trung, thấy một con hạc trắng quay đầu về phía vua, gật ba cái rồi bay đi. Chén trà đột nhiên dâng lên làn hương cùng bọt nhỏ từ dưới đáy, lăn tăn bóng nước, và chầm chầm lan tỏa không dứt, nhác trông giống bông hoa tuyết. Lại hợp với lời tâu thái giám, loại trà này pha bằng chiếc lông hạc. Vua cảm động và sung sướng, hạc trắng cúi đầu chào ba lần, ý như cung chúc vua vạn tuổi. Vua Minh Tông sau đặt tên là trà Quân Sơn Ngân Châm. Loại trà này xưa chỉ để tiến vua...

Ở Trung Quốc thời Tây Chu, trà bắt đầu được xem như một vật phẩm tiến vua. Cuối thời Tây Hán, trà là thứ hàng hóa chủ yếu. Đến thời nhà Đường, trà trở nên phổ biến với mọi người dân. Vào thế kỷ thứ 6, một vị hòa thượng đã mang trà đến Nhật Bản, thế kỷ thứ 16, một người truyền giáo Bồ Đào Nha đã giới thiệu trà Trung Quốc ở Âu châu. Trà - uống trà là nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của người dân Trung Quốc.

(Nguồn)
Về Đầu Trang Go down
Chép

Chép


Tổng số bài gửi : 26
Join date : 21/06/2011
Age : 41

Trà và những giai thoại Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trà và những giai thoại   Trà và những giai thoại Empty3/8/2011, 09:47

An Khê Thiết Quan Âm:

Tại một làng nọ ở miền núi huyện An Khê của tỉnh Phúc Kiến có một ngôi miếu thờ phật bà Quan Âm. Trong thời loạn lạc chiến tranh giữa quân Thanh và nhà Minh, dân tình khổ sở, dân miền nầy cũng không tránh được hiểm hoạ chiến chinh. Trong số dân làng của Giang Nam, có một người thanh niên nọ vẫn rất thành tâm trong việc giữ gìn hương quả cho đền thờ phật bà Quan Âm mà đã bị tàn phá vì chiến tranh. Một hôm chàng trai nọ đã thiếp đi sau khi làm xong việc hương quả và khấn nguyện. Chàng ta mơ thấy Phật Bà hiện về và bảo chàng rằng Phật Bà rất cảm kích lòng thành của chàng ta và bảo ra sau miếu mà lấy "báu vật" về chia sẻ cùng bà con trong làng. Chàng thanh niên tỉnh giấc và đi vào phía sau miếu tìm kiếm mà chẳng thấy gì ngoại trừ một cây trà con đang mọc. Chàng liền bứng mang về nhà mà trồng thử. Không ngờ sau này hái, ủ, sấy và pha uống thì cảm thấy có một hương vị rất tuyệt vời. Sau đó chàng chiết giống mà chia cùng những người còn sống trong làng để trồng và bán đi những nơi khác với tên Thiết Quan Âm. Gọi là Thiết Quan Âm bởi lẽ lá trà khi chế biến xong có màu đen như sắt thép, đặt lên tay thấy nặng hơn các loại trà khác. Để tỏ lòng biết ơn Phật Bà Quan Âm, người dân đã trùng tu lại cái am nhỏ thành một đền thờ tráng lệ mà đến nay vẫn còn là nơi thờ phụng Phật Bà.

Vũ Di Đại Hồng Bào:

Thời vua Khang Hy của triều Thanh, có một anh học trò rất nghèo vác lều chỏng đi thi ở Bắc Kinh. Khi chàng ta trèo qua núi Vũ Di thì bị đói lã người và nằm thiếp đi dưới một tàng cây. Rất may chàng ta được một vị sư đi ngang và hái lá cây đó pha nước cho uống, chàng tĩnh dậy và hồi sức tiếp tục lên đường dự thí ở Bắc Kinh. Sau đó, chàng ta được đỗ làm quan và vua cho về thăm gia đình. Khi chàng ta ghé lại chốn xưa, tìm thăm vị sư nọ để báo ân và chàng hỏi xin một ít "lá" mà sau nầy chàng ta biết là một loại trà ở địa phương đấy. Chàng có mang về Bắc Kinh một ít để dâng lên cho vua. Vua uống thử trong lúc đang lâm bệnh và hồi phục rất chóng. Vua cảm nghĩa và thưởng cho chàng ta một áo choàng đại bào màu đỏ... và truyền lệnh cho dân Phúc Kiến hàng năm dùng giống trà đặc biệt đấy để làm vật tiến cung. Sau nầy giống hồng trà nầy được gọi bằng tên Đại Hồng Bào và nổi tiếng từ đấy.

Hoàng San Mao Phong:

Có một cặp nhân tình nọ làm cho một trang trại trà ở tỉnh Quế An gần ngọn Hoàng San. Họ yêu nhau thắm thiết nhưng vì nghèo nên họ chưa lấy nhau được. Cô gái thì có nhan sắc tuyệt vời và không may bị lọt vào mắt của lão điạ chủ độc ác. Lão ta cho người đến hỏi cô ta làm vợ kế nhưng bị nàng cự tuyệt. Sau đấy, lão ta cho lệnh bắt người tình của cô ta đem giết và vất xác trên núi Hoàng San. Được hung tin, cô gái nọ đi lên núi tìm được xác người yêu. Cô ta xúc động, khóc lóc thảm thương và những giọt nước mắt của nàng đã trở thành những giọt sương ấp ủ bụi trà mà xác người yêu của nàng đã nằm xuống. và từ đó, bụi trà Mao Phong trên đỉnh Hoàng San đã đi vào huyền thoại.

(Nguồn)
Về Đầu Trang Go down
 
Trà và những giai thoại
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Ấm tử sa: từ huyền thoại đến sự thực (Trịnh Quang Dũng)
» Azgame.us – Cổng giải trí game bài miễn phí hấp dẫn nhất!
» [...got talent] và những cảm xúc
» Truyện ngụ ngôn kiểu mới ^^
» Những người láu cá

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thư giãn nhẹ nhàng :: Quán trà đạo-
Chuyển đến